Xa khơi là một ca khúc trong bộ 05 tác phẩm Giải thưởng Nhà nước đợt I (năm 2001) của nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ, được viết vào năm 1961 trong khi đang thực hiện một chuyến đi điền dã đầy gian nan tại một số huyện vùng cao thuộc tỉnh miền núi Hòa Bình. Lúc này, Đảng và Nhà nước mở một cuộc thi lớn về sáng tác ca khúc, nhằm cổ vũ, động viên tinh thần sản xuất, chiến đấu của tiền tuyến và hậu phương lớn.
Tất nhiên, trước đó, vào năm 1958, nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ đã được trải nghiệm một đợt đi thực tế tại vùng giới tuyến Gio Linh, Quảng Trị, hình thành ý tưởng sáng tác một tác phẩm sống mãi với thời gian.
Hồn cốt của tác phẩm được nhạc sĩ lựa chọn theo điệu thức của “Ví”, “Giặm”, những loại hình âm nhạc dân gian của Nghệ Tĩnh, ở dạng đơn sơ nhưng trong lòng nó đã chứa đựng một tiềm năng, khơi gợi cho những nhạc sĩ có thể đi sâu vào khai thác và phát triển chất liệu âm nhạc này. Việc phát triển “Ví”, “Giặm” ở đây dứt khoát phải đi xa hơn nữa, tuyệt đối không được bê nguyên xi vốn của cha ông vào tác phẩm.
Dòng âm nhạc dân gian “Ví”, “Giặm” tuy đơn giản, điệu thức chỉ 5 nốt re fa sol la do, nhưng ẩn giấu một chiều sâu tiềm tàng, một nội lực như cốt cách tâm hồn của người dân xứ Nghệ. Vẻ ngoài tuy mộc mạc nhưng ý chí và sức mạnh trí tuệ lại to lớn trong Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du và sau này là Xuân Diệu, Huy Cận v.v.. Tiêu biểu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Mạch nguồn dân ca ấy đã gặp thời cơ để có thể bùng nổ trong hàng trăm tác phẩm âm nhạc của các nhạc sĩ đương đại. Trong dòng chảy ấy, Xa khơi của nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ đã có thể giương cánh buồm êm ả, bay xa.
Tiêu đề và khúc thức âm nhạc của ca khúc “Xa khơi”
Đầu đề Xa khơi, tên ca khúc cũng mang một hàm nghĩa rất rộng, ý tại ngôn ngoại, chờ đón một cái gì đó vừa thực vừa hư ảo, không định vị về không gian, thời gian, khuyếch đại nhiều chiều để khơi gợi sức tưởng tượng bay bổng của người nghe.
Khúc thức của Xa khơi là A, B, coda. Đoạn A (Andante) là đoạn chậm (chậm rãi, trang trải), đoạn B nhanh, sinh động (Allegro con agitato), đoạn coda lặp lại điệu thức của A, cũng chậm rãi, trang trải, đảm bảo tính thống nhất của tác phẩm.
Đoạn A (Andante) “Nắng tỏa chiều nay, chiều tỏa nắng đôi bờ anh ơi. Gió lộng buồm, mây ươm chân trời. Biển lặng sóng thuyền em giong khơi…” diễn tả một không gian bình yên đầy đặn, tưởng như vĩnh viễn và bất biến. Biển ở đây phẳng lặng đến vô tận, nắng mới ươm ở chân trời, nhưng trong êm ả ấy đã vang lên “giọng hò thương anh cách vời” để lộ ở đây cảm giác ly biệt thoáng qua rất nhẹ. Diễn tả cảm xúc của cô gái về sự chia ly một cách tinh tế.
Biển được dùng để cấu trúc nên hình tượng nghệ thuật mô tả cảm xúc mênh mông, vô định của cuộc đời. Giai điệu và ca từ “Kìa biển rộng con nục con măng, lướt sóng liệng đôi bờ tung tăng. Con chuồn còn bay nơi nơi. Con giang chiều gọi bạn đường khơi.” tạo nên tầng tầng lớp lớp những hình ảnh âm nhạc như những lớp sóng ruổi nhau, vừa hết sức tự nhiên, vừa gần gũi, gợi sức tưởng tượng sâu xa.
Chuỗi sáng tạo ở đây luôn hướng về bản ngã, nhưng đôi khi cảm xúc thẩm mỹ phiêu diêu, sức tưởng tượng bay bổng sự vươn tới của khát vọng khiến tác giả quên cả bản ngã, đạt đến vô ngã, vô thức. Điều đó mới nghe tưởng như phi lý nhưng lại là rất có lý trong sáng tạo nghệ thuật để đạt đến một giá trị thẩm mỹ như mong đợi, một thông điệp ý tại ngôn ngoại.
Sau đoạn chậm rãi thong thả, là tiết tấu nhanh, mạnh, mềm mại, đậm đà trữ tình biểu lộ một cá tính đặc biệt, một tài năng trong sáng tạo âm nhạc. Những tưởng đó là sự yên bình mãi mãi với câu hò trầm bổng, bát ngát, gợi cảm, lan tỏa mênh mang… Nhưng chính trong giai điệu âm nhạc ấy, đã cho thấy một cảm nhận sâu kín, ẩn dưới tầng sâu của biển cả, âm ỉ những đợt sóng ngầm chực chờ trỗi dậy.
Giai điệu lời ca tha thiết, riết róng, mạnh mẽ và mềm mại, đồng thời mang một nỗi âu lo đẩy lên thành cao trào của đoạn A “Nắng tỏa chiều nay, thuyền về mái đọng chiều nay. Nhìn phương nam con nước vơi đầy thương nhớ, nhớ thương anh ơi”.
Đoạn B Allegro con agitato (nhanh, sinh động) “Ơi mênh mông sóng xô du thuyền ta xa bờ”. Âm nhạc từng đợt, từng đợt, như sóng xô vào bờ. Nhưng con người với bản lĩnh của mình đối diện với thử thách một cách bình tĩnh “Âm vang tiếng hò nhịp chèo ta mong chờ”. Sự thử thách đã vượt lên và bản ngã của con người, của tình yêu đã chiến thắng “Thuyền ra xa khơi đưa nhịp chèo nối liền”. Dẫu có phải trải qua muôn vàn khó khăn trắc trở vẫn tìm về một sự thống nhất hai miền “Đường đi muôn khơi mái chèo chung đôi miền”.
Cơn cuồng phong bão tố không dập tắt nổi khát vọng của tình yêu đôi lứa cấu thành cao trào của đoạn B “Ơ! Mênh mông biển khơi câu hò thương nhớ…vang về miền Nam quê ta”. Tình yêu được thử thách trong bão tố và đã chiến thắng trước mọi bão táp của cuộc đời được thể hiện trong thoái trào của đoạn B “Biển dập dìu, biển tâm tình, biển nói lên lời sóng cả ta chung lứa đôi…”.
Đoạn coda tuy chỉ có bảy nhịp, về mặt âm nhạc đã quay lại điệu thức chủ đạo của đoạn A, để nhắc lại tình cảm ban đầu, bảo đảm tính thống nhất của tác phẩm âm nhạc. Vì qua đoạn A chậm, đến đoạn B, âm nhạc đã đi rất xa, muốn trở về với cái gốc ban đầu, tác giả đã sử dụng coda thay cho đoạn A.
Ca khúc có ba cao trào. Đoạn chậm có 1 cao trào, đoạn nhanh có 1 cao trào. Ngoài hai cao trào trên, ở đây ta bắt gặp cao trào lớn nhất của toàn bài. Ở cao trào lớn này tác giả muốn diễn đạt mức độ dồn nén tình cảm đã được dâng lên ở mức mãnh liệt nhất, dồn nén nhất và kịch tính nhất “Biển nói lên lời bao ngày thương nhớ biển ơi…” và sau đó được giải tỏa “Nhớ thương cách vời ơi biển chiều nay” trong nhịp cuối cùng của toàn bài. Để người nghe có cảm giác thở phào nhẹ nhõm trước cái kết dài lặng dần.
Kỳ công lựa chọn, viết lời cho tác phẩm “Xa khơi” của nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ.
“Ơi phong ba lướt xô mái chèo ta xa bờ. Phong ba sóng cồn lòng ta luôn mong chờ. Kề vai bên nhau chớp bể cùng mưa nguồn. Kề vai bên nhau em kề bên anh thương. Ơ! Em ơi lời ca câu hò thương nhớ vang về cùng anh không xa. Biển dập dìu, biển tâm tình, biển nói lên lời sóng cả ta chung lứa đôi”. Tác giả lựa chọn một nét ngọc trong kho tàng tinh hoa văn học dân gian tích hợp vào ca khúc làm cho hồn cốt của ca từ thêm sức nặng “Đêm qua chớp bể mưa nguồn/ Hỏi người bên ấy có buồn hay không”.
Tú Xương cũng đã từng tự trào “Trời không chớp bể với mưa nguồn/Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn”. Nỗi buồn nhân gian ấy, thêm một lần nữa, lại được nhạc sĩ trải nghiệm vào câu hát gan ruột của mình “Kề vai bên nhau chớp bể cùng mưa nguồn”.
Việc sáng tác âm nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ cứ như máu lưu thông trong huyết quản vậy. Ông coi các tác phẩm như các con của mình, thậm chí còn hơn thế nữa! Nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ muốn chúng toàn bích, và sẽ mãi mãi làm cho chúng hoàn thiện và trở nên toàn bích chừng nào có thể. Trong trường hợp này, tác giả thay đổi lần thứ ba mới chọn được chữ “liệng”, “Lướt sóng liệng đôi bờ tung tăng”. Ban đầu là “liền”.
Vì sao viết về biển mà phải nhọc công gắng sức, phải làm sao để hai chữ đôi bờ vang ngân, sức gợi lớn, bóng lồng bóng trập trùng, nhịp nối nhịp trẻ trung, khao khát yêu đời quấn quyện, phải làm sao để đôi bờ được hòa nhịp tự do phơi phới? Vì đó là Hiền Lương, là vĩ tuyến 17 của ngày Bắc đêm Nam, là đôi bờ nhạy cảm nhất lúc bấy giờ của lịch sử dân tộc.
Viết được đến “liền đôi bờ” đã là sự diễn đạt ca từ ở mức độ tiến sát vào mỹ cảm rồi! Con nục con măng còn tung tăng liền được đôi bờ, tại sao con người lại bị đôi bờ chia cắt. Nhưng khi ngẫm nghĩ mãi, tác giả lại thấy chữ “liền” tuy biểu đạt được sự phản ánh cao về nội dung, nhưng sức biểu đạt về nghệ thuật của hiệu ứng lời ca chưa thấu triệt, chưa tinh tế. Nhạc sĩ cố tìm cho được cái từ phù hợp nhất để đặt vào câu ca này của toàn bộ lời ca. Và Ông đã quyết là làm, buộc phải tìm cho bằng được! Lời ấy phải đạt được ý tại ngôn ngoại, lời ấy mang biểu tượng nghệ thuật trữ tình, khác xa với lời mang tính chất chỉ thị, kiểu ngôn ngữ khẩu hiệu…
Nhạc sĩ tìm ra chữ “lượn”, thấy nó được hơn, bèn cho chữ “lượn” vào thế chỗ cho từ “liền”. Từ “lượn” biểu đạt được sự cụ thể, dễ liên tưởng sự vui vẻ, xem ra hợp với tung tăng, lại tránh được sự lộ ý. Các bậc thi nhân xưa rất chú ý câu “Ý kị lộ, mạch kị trực” mà! Những tưởng chữ “lượn” đã yên vị, có giá trị rồi, sau một khoảng thời gian lắng lại và chiêm nghiệm, nhạc sĩ đã nhận ra từ “lượn” ở vào cái vị trí đó vẫn chưa phù hợp.
Từ “lượn” tuy đã mang tính động từ, nhưng tính chất động của nó có cái gì đó còn yếu, còn mỏng mảnh, chưa đủ sức nặng điểm nhãn cho biểu tượng nghệ thuật biểu đạt khát vọng nối liền hai miền Nam Bắc. Cuộc tìm kiếm của Ông như vậy là chưa thể cán đích được. Nhạc sĩ tiếp tục tìm kiếm, tuyển chọn trong đại ngàn Tiếng Việt tầng tầng, lớp lớp từ mang nghĩa để đưa vào vị trí ấy.
Cuối cùng, tác giả cũng đã tìm thấy chữ “liệng”. Để cắt nghĩa cho việc điểm nhãn gọi là đến đích thành công này, có thể tóm gọn vào một chữ HỢP. Lời ca đã có từ “liệng” được đặt yên vị rồi, mới thấy nó lập tức phát huy tác dụng kép. “Liệng” vừa có sức nặng biểu cảm, mỹ cảm, vừa có đường nét mạnh mẽ hòa quyện với sông nước, lại hợp với ngôn ngữ miền Trung. Có “liệng”, trong câu, từ đã nối từ êm chắc, sóng của từ xô vào nhau như những lớp sóng biển, âm thanh đã vang lên ngay cả khi lời tách khỏi bản nhạc.
Và nhạc sĩ tin là từ đây, những xung động của tâm hồn mình gửi gắm trong ca khúc khiến những người yêu âm nhạc cảm nhận được. Hơn thế nữa, khi phát âm về thanh nhạc, âm của “liệng” không cạn như “liền”, không nâng mỏng như “lượn” mà sâu lắng và vang hơn. Người nghệ sĩ sáng tạo âm nhạc nhiều khi phải tính toán xem liệu người hát có hát được tới ý tưởng sáng tạo của mình hay không, phải tạo điều kiện cho họ thể hiện tốt nhất chất giọng và tài năng của họ, giúp nâng giá trị giọng ca của người nghệ sĩ biểu diễn.
Cảm xúc đã cuốn lời ca quyện vào nét nhạc thành một thể thống nhất. “Ví”, “Giặm” thì rõ ràng của Nghệ Tĩnh bay lượn trong âm nhạc ở đây rồi, nhưng còn chữ nghĩa… Chữ nghĩa ở đây không hề mang tính vùng miền! Đơn giản là ca từ sáng tạo ra buộc nó phải vậy mới gọi là HỢP. Vấn đề là chữ “đọng”. Chữ “đọng” để biểu thị một sự ngưng tụ. Chiều đến là điểm về của người Việt. Không hẳn là mái nhà, cũng không phải mái chèo. Một vời vợi không gian ngưng tụ để người ta ngóng đợi, để lắng lại, để níu giữ, để khao khát. Mái đọng chơi vơi giữa âm nhạc, ngôn ngữ và vô thường “Thuyền về mái đọng chiều nay. Nhìn phương Nam con nước vơi đầy…”, đó là chữ của ca từ, không phải chữ trong từ điển phổ thông.
Xa khơi là tác phẩm phát triển chất liệu “Ví”, “Giặm” dân ca Nghệ tĩnh thành công nhất, được nhiều nghệ sĩ yêu thích, thể hiện.
Xa khơi của nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ là một trong những tác phẩm phát triển dân ca “Ví”, “Giặm” Nghệ tĩnh thành công nhất. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đưa ra trong cuộc bảo vệ Xa khơi trước Ban Giám khảo của một cuộc thi sáng tác âm nhạc để ca ngợi và cổ vũ tiền tuyến lớn và hậu phương lớn năm 1962 vào thời kỳ miền Nam đồng khởi, do bốn cơ quan: Bộ Văn hóa, Ban Thống nhất Trung ương, Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam cùng tổ chức, khẳng định: “Cho đến bây giờ, chưa có ai phát triển “Ví” “Giặm” Nghệ Tĩnh mà thành công như Nguyễn Tài Tuệ”.
Nhạc sĩ An Thuyên, người có công trong công việc sưu tầm vốn dân ca xứ Nghệ và là người kế thừa “Ví”, “Giặm” để viết các tác phẩm mới, đã nói, đại ý, có đến vài chục nhạc sĩ đã thừa kế vốn “Ví” “Giặm” để viết, nhưng nếu cho chọn một, thì đó là Xa khơi của Nguyễn Tài Tuệ.
Xa khơi cũng là một trong những ca khúc được nhiều nghệ sĩ yêu mến, thể hiện thành công. Cách đây trên 60 năm có Nghệ sĩ ưu tú Tân Nhân, người Quảng Trị, bên kia giới tuyến, xa cha mẹ, xa họ hàng bà con. Chị đã dồn nén tâm trạng của đồng bào đôi bờ con sông Bến Hải, mang nặng nỗi nhớ da diết của những người con bên kia giới tuyến vào bài hát. Với Xa khơi, chị hát hay bởi nỗi đau chia cắt ấy.
Tiếp đến là NSND Tường Vi với giọng soprano trữ tình đã làm rung động biết bao trái tim, NSND Thanh Huyền lại hát bên kia trời Tây, vang vọng trên mặt nước của thành phố Vơ-ni-dơ, NSND Lê Dung hát Xa khơi giữa những tiếng vỗ tay tưởng như không dứt của công chúng Sài Gòn. Rồi sau đó là lớp lớp các giọng hát: Tân Nhàn, Quỳnh Vân, Anh Thơ cùng rất nhiều nghệ sĩ khác, bây giờ có nhiều ca sĩ hát Xa khơi rất tốt…
Hai mươi năm nay, Anh Thơ là người hát Xa khơi hay nhất, và tới đây cũng khó có ai vượt qua được. Giọng hát Anh Thơ với âm sắc dân gian đặc biệt, với sự rung động sâu xa, thăm thẳm, với một giọng hát khoa học, đốt cháy mình trên sân khấu toàn quốc, ăn đậm trong lòng đại công chúng của một nghệ sĩ đích thực, đứng hàng đầu về tầm cỡ.
Anh Thơ trong biểu diễn Xa khơi phát âm rất rõ từng câu, từng chữ, khi to khi nhỏ, khi xa khi gần cộng với phần vocal do chị sáng tác thêm cho tốp ca nữ trình bày, rất ăn nhập và quấn quýt với giai điệu, đã nâng tính lãng mạn, tính cảm xúc lên một tầm cao giàu chất thơ của lời ca, nhờ đó đã góp phần nâng giá trị thẩm mỹ và cảm xúc Tiếng Việt của bài hát./.